Sóng ngắn là gì? Các công bố khoa học về Sóng ngắn

Sóng ngắn là phần quan trọng của phổ điện từ với tần số từ 3 MHz đến 30 MHz và được ứng dụng rộng rãi trong truyền thông. Sóng ngắn có khả năng truyền tải xa nhờ phản xạ từ tầng điện ly, vượt qua các chướng ngại địa lý. Chúng được dùng trong truyền thông quốc tế, khám phá khoa học và quân sự. Tuy nhiên, truyền sóng ngắn đối mặt thách thức như nhiễu điện và biến đổi tầng điện ly. Mặc dù vậy, công nghệ cải tiến liên tục giúp tối ưu hóa ứng dụng sóng ngắn trong tương lai.

Sóng Ngắn: Khái Niệm và Ứng Dụng

Sóng ngắn, một phần quan trọng của phổ điện từ, có độ dài sóng từ khoảng 10 mét đến 100 mét, tương đương với tần số từ 3 MHz đến 30 MHz. Được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, sóng ngắn đóng vai trò quan trọng trong công nghệ truyền thông và các ngành liên quan.

Đặc Điểm Của Sóng Ngắn

Sóng ngắn có khả năng truyền tải trên khoảng cách rất xa nhờ vào hiện tượng phản xạ từ tầng điện ly (ionosphere). Điều này giúp chúng có thể vượt qua các chướng ngại vật địa lý mà các loại sóng có tần số thấp hơn hoặc cao hơn không thể làm được. Khả năng đâm xuyên môi trường tốt và ít bị suy hao khiến sóng ngắn trở thành lựa chọn lý tưởng cho truyền thông toàn cầu.

Ứng Dụng Của Sóng Ngắn

Truyền Thông Quốc Tế

Truyền thông bằng sóng ngắn đã được sử dụng từ thế kỷ 20 cho các mục đích như đài phát thanh quốc tế, liên lạc hàng hải và phát tín hiệu quân sự. Sóng ngắn có khả năng phủ sóng toàn cầu, giúp các đài phát thanh truyền tải thông điệp của họ đến người nghe ở những khu vực xa xôi nơi mà các phương thức truyền thông khác không thể vươn tới.

Khám Phá Khoa Học

Trong nghiên cứu khoa học, sóng ngắn được sử dụng trong các thiết bị radar và các hệ thống theo dõi không gian. Chúng giúp theo dõi các đối tượng từ xa, nghiên cứu các hiện tượng khí quyển và địa chất, cũng như hỗ trợ trong công tác tìm kiếm và cứu hộ.

Ứng Dụng Quân Sự

Sóng ngắn được sử dụng rộng rãi trong quân đội, đặc biệt trong các hệ thống liên lạc mã hóa, do khả năng truyền tải tin cậy và phạm vi phủ sóng rộng. Công nghệ này không chỉ được dùng cho liên lạc giữa các đơn vị mà còn cho trinh sát và theo dõi hoạt động quân sự của đối phương.

Những Thách Thức Liên Quan Đến Sóng Ngắn

Mặc dù có nhiều ưu điểm, việc truyền sóng ngắn cũng đối mặt với một số thách thức. Nhiễu điện từ từ các nguồn thiên nhiên và nhân tạo có thể ảnh hưởng đến chất lượng truyền tải. Bên cạnh đó, sự thay đổi trong tầng điện ly do hiện tượng thời tiết vũ trụ cũng có thể gây gián đoạn dịch vụ vô tuyến.

Kết Luận

Sóng ngắn vẫn giữ một vị trí quan trọng trong lĩnh vực truyền thông và khoa học. Mặc dù có những thách thức nhất định, những cải tiến công nghệ không ngừng đang giúp cải thiện và tối ưu hóa việc sử dụng sóng ngắn, mở ra nhiều tiềm năng và ứng dụng mới trong tương lai.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sóng ngắn":

Triệu chứng sau ra viện và nhu cầu phục hồi chức năng ở những người sống sót sau nhiễm COVID-19: Một đánh giá cắt ngang Dịch bởi AI
Journal of Medical Virology - Tập 93 Số 2 - Trang 1013-1022 - 2021
Tóm tắtBối cảnh

Hiện tại có rất ít thông tin về bản chất và sự phổ biến của các triệu chứng sau COVID-19 sau khi xuất viện.

Phương pháp

Một mẫu có chủ ý gồm 100 người sống sót được xuất viện từ một bệnh viện Đại học lớn đã được đánh giá 4 đến 8 tuần sau khi xuất viện bởi một nhóm đa ngành chuyên về phục hồi chức năng bằng công cụ sàng lọc qua điện thoại chuyên dụng được thiết kế để thu thập các triệu chứng và tác động lên đời sống hàng ngày. Phiên bản điện thoại EQ‐5D‐5L cũng đã được hoàn thành.

Kết quả

Người tham gia từ 29 đến 71 ngày (trung bình 48 ngày) sau khi xuất viện từ bệnh viện. Ba mươi hai người tham gia yêu cầu điều trị trong đơn vị chăm sóc đặc biệt (nhóm ICU) và 68 người được quản lý trong các khoa bệnh viện mà không cần chăm sóc ICU (nhóm khu bệnh). Mệt mỏi mới liên quan đến bệnh là triệu chứng thường gặp nhất được báo cáo bởi 72% người tham gia trong nhóm ICU và 60,3% trong nhóm khu bệnh. Các triệu chứng phổ biến tiếp theo là khó thở (65,6% trong nhóm ICU và 42,6% trong nhóm khu bệnh) và căng thẳng tâm lý (46,9% trong nhóm ICU và 23,5% trong nhóm khu bệnh). Có sự giảm điểm EQ5D đáng kể về mặt lâm sàng ở 68,8% trong nhóm ICU và 45,6% trong nhóm bệnh viện.

Kết luận

Đây là nghiên cứu đầu tiên từ Vương quốc Anh báo cáo về các triệu chứng sau xuất viện. Chúng tôi khuyến nghị kế hoạch hóa dịch vụ phục hồi chức năng để quản lý những triệu chứng này một cách phù hợp và tối đa hóa sự hồi phục chức năng của những người sống sót COVID-19.

#COVID-19 #hậu xuất viện #triệu chứng #phục hồi chức năng #đánh giá cắt ngang
Sức khỏe của trẻ mẫu giáo và mối liên hệ với trình độ học vấn của cha mẹ và điều kiện sống cá nhân ở Đông và Tây Đức Dịch bởi AI
BMC Public Health - - 2006
Tóm tắtBối cảnh

Sự bất bình đẳng về sức khỏe trong xã hội tồn tại trên phạm vi toàn cầu và là mối quan tâm lớn đối với y tế công cộng. Nghiên cứu này tập trung vào việc điều tra có hệ thống các mối liên hệ giữa các chỉ số sức khỏe, điều kiện sống và trình độ học vấn của cha mẹ như một chỉ số của tình trạng xã hội của trẻ em 6 tuổi sống ở Đông và Tây Đức trong thập kỷ sau khi thống nhất lại. Các giải thích về các mối quan hệ quan sát được giữa trình độ học vấn của cha mẹ và các chỉ số sức khỏe đã được kiểm tra.

Phương pháp

Tất cả các bé trai và bé gái vào tiểu học và sống trong các khu vực được xác định trước của Đông và Tây Đức đã được mời tham gia một loạt các cuộc khảo sát cắt ngang được thực hiện từ năm 1991 đến 2000. Dữ liệu của 28,888 trẻ em Đức với thông tin về học vấn của cha mẹ đã được đưa vào phân tích. Thông tin về trình độ học vấn của cha mẹ, điều kiện sống cá nhân, triệu chứng và chẩn đoán các bệnh truyền nhiễm và dị ứng được lấy từ bảng hỏi. Trong ngày điều tra, viêm da dị ứng (eczema) được chẩn đoán bởi các bác sĩ da liễu, máu được lấy để xác định globulin miễn dịch E cụ thể với dị ứng, chiều cao và cân nặng được đo và các xét nghiệm chức năng phổi được thực hiện trong các nhóm phụ. Phân tích hồi quy đã được áp dụng để điều tra các mối liên hệ giữa các chỉ số sức khỏe và trình độ học vấn của cha mẹ cũng như điều kiện sống của trẻ. Giới tính, khu vực đô thị/nông thôn và năm khảo sát đã được sử dụng để kiểm soát yếu tố gây nhiễu.

Kết quả

Tỷ lệ phản hồi trung bình là 83% ở Đông Đức và 71% ở Tây Đức. Các mối liên hệ mạnh mẽ giữa các chỉ số sức khỏe và trình độ học vấn của cha mẹ đã được quan sát. Các bậc phụ huynh có trình độ học vấn cao hơn báo cáo nhiều chẩn đoán và triệu chứng hơn so với những người ít học hơn. Trẻ có cha mẹ học vấn cao hơn cũng thường nhạy cảm với phấn hoa cỏ hoặc mạt bụi nhà, nhưng có cân nặng khi sinh cao hơn, sức cản đường hô hấp thấp hơn và ít thừa cân hơn khi được 6 tuổi. Hơn nữa, hầu hết các chỉ số sức khỏe có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê với một hoặc nhiều điều kiện sống như sống là con một, không khí trong nhà không thuận lợi, điều kiện nhà ở ẩm ướt, mẹ hút thuốc lá trong thai kỳ hoặc sống gần đường giao thông bận rộn. Dung tích phổi toàn phần và sự phổ biến của viêm da dị ứng vào ngày điều tra là các chỉ số sức khỏe duy nhất không cho thấy mối liên hệ với bất kỳ biến dự đoán nào.

Kết luận

Mặc dù có sự khác biệt lớn về điều kiện sống và bằng chứng cho thấy một số kết quả sức khỏe kém liên quan trực tiếp đến điều kiện sống không tốt, chỉ có một vài chỉ số cho thấy tình trạng sức khỏe kém ở trẻ em có hoàn cảnh bất lợi về xã hội. Ở cả hai phần của Đức, tỷ lệ thừa cân cao hơn, sức cản đường hô hấp cao hơn, và chỉ riêng ở Đông Đức, chiều cao thấp hơn ở trẻ có cha mẹ ít học so với những em có cha mẹ học vấn cao hơn. Ở cả Đông và Tây Đức, tỷ lệ triệu chứng đường hô hấp cao hơn liên quan đến điều kiện nhà ở ẩm ướt, và cân nặng khi sinh thấp hơn, chiều cao thấp hơn và sức cản đường hô hấp tăng khi 6 tuổi liên quan đến việc mẹ hút thuốc lá trong thai kỳ. Điều này giải thích phần lớn sự khác biệt về cân nặng khi sinh và sức cản đường hô hấp giữa các nhóm học vấn.

#sự bất bình đẳng xã hội #sức khỏe công cộng #giáo dục của cha mẹ #điều kiện sống cá nhân #điều tra cắt ngang #viêm da dị ứng #chức năng phổi #trẻ mẫu giáo #Đông Đức #Tây Đức
Mô phỏng tác động của các gradien khúc xạ ngang do sự kiện thời tiết khắc nghiệt ở tầng đối lưu lên sự lan truyền tín hiệu GPS Dịch bởi AI
IEEE Journal of Selected Topics in Applied Earth Observations and Remote Sensing - - 2015
Trong nghiên cứu này, các tác động của các gradien khúc xạ ngang trong tầng điện ly và tầng khí quyển thấp lên đường đi của tín hiệu GPS cho cả các bộ thu trên mặt đất và các bộ thu trên vệ tinh quỹ đạo thấp được xem xét. Kỹ thuật mô phỏng đường đi tia ba chiều, dựa trên quang hình học, cùng với các mô hình của tầng điện ly, tầng khí quyển thấp và trường từ, được sử dụng để mô phỏng sự lan truyền tín hiệu GPS. Các gradien khúc xạ ngang trung bình được xác định từ một sự kiện bão trong tầng đối lưu diễn ra ở Melbourne, Australia, vào ngày 6 tháng 3 năm 2010. Các phương pháp thu thập dữ liệu truyền thống của GPS về tầng điện ly và khí quyển giả định sự phân lớp hình cầu của độ khúc xạ trong khí quyển và thường không xem xét đến các gradien khúc xạ ngang tác động lên các tín hiệu GPS. Các dịch chuyển ngang của các đường đi tín hiệu GPS được tính toán cho cả các trạm trên mặt đất và cho các đường dẫn nghiêng vô tuyến của quỹ đạo thấp.
#Global Positioning System #radiowave propagation #ray tracing #refractivity #severe weather #Global Positioning System #radiowave propagation #ray tracing #refractivity #severe weather
Thói quen lối sống và triệu chứng trầm cảm ở thanh thiếu niên Na Uy: Một nghiên cứu cắt ngang quốc gia Dịch bởi AI
BMC Public Health - - 2021
Tóm tắt Giới thiệu

Mục tiêu của nghiên cứu này là kiểm tra mối liên hệ giữa một loạt các thói quen lối sống và các triệu chứng trầm cảm ở thanh thiếu niên Na Uy.

Phương pháp

Nghiên cứu này dựa trên dữ liệu cắt ngang tự báo cáo, quốc gia từ các Khảo sát Ungdata, được thực hiện trong giai đoạn 2017–2019. Nhóm đối tượng mục tiêu bao gồm 244,250 thanh thiếu niên (độ tuổi từ 13–19). Phân tích hồi quy logistic nhị phân đã được sử dụng để phân tích mối liên hệ giữa các thói quen lối sống (hoạt động thể chất, sử dụng mạng xã hội, chơi game, thói quen ăn uống, hút thuốc, thuốc lá không khói, say rượu) và các triệu chứng trầm cảm. Biến kết quả được xác định là mức độ triệu chứng trầm cảm cao (≥80th percentile). Các phân tích riêng biệt đã được thực hiện cho các bé trai và bé gái, và tất cả các mô hình đều được điều chỉnh cho kinh tế gia đình cảm nhận, trình độ học vấn của cha mẹ và độ tuổi.

Kết quả

Nguy cơ có triệu chứng trầm cảm thấp hơn một cách đáng kể ở những người báo cáo tham gia hoạt động thể chất ít nhất 3 lần mỗi tuần (OR; bé trai: 0.81, bé gái: 0.83), sử dụng mạng xã hội ≤3 giờ mỗi ngày (OR; bé trai: 0.65, bé gái: 0.70), chơi game ≤3 giờ mỗi ngày (OR; bé trai: 0.72, bé gái: 0.77), không hút thuốc (OR; bé trai: 0.74, bé gái: 0.72) và chưa từng trải qua tình trạng say rượu trong 12 tháng qua (OR; bé trai: 0.66, bé gái: 0.67). Hơn nữa, kết quả cho thấy có mối liên hệ ngược đáng kể giữa triệu chứng trầm cảm và tiêu thụ cao các loại thực phẩm lành mạnh cũng như tiêu thụ thấp thực phẩm và đồ uống không lành mạnh ở bé gái. Các xu hướng tương tự cũng được tìm thấy ở bé trai (OR; 0.77–0.91). Cuối cùng, việc tuân thủ cao hơn các thói quen lối sống lành mạnh có mối liên hệ đáng kể với nguy cơ thấp về triệu chứng trầm cảm ở cả hai giới (OR; bé trai: 0.40, bé gái: 0.52).

Kết luận

Lối sống lành mạnh có mối liên hệ với nguy cơ thấp về triệu chứng trầm cảm. Cần thêm nghiên cứu để xác nhận mối liên hệ nguyên nhân có thể xảy ra.

Application of electrical imaging and multichannel analysis of surface waves methods to survey the structure foundation at the Districts 2 and 9 of Ho Chi Minh City
In geophysics, multichannel analysis of surface waves (MASW) is employed to survey the stiffness of soil environment by the values of shear wave velocity (VS), while 2D electrical imaging method is utilized to examine the conductivity of soil environment by the values of resitivity (). In this study presented the results of 1D VS from MASW and 2D section from electrical imaging method to study the soil environment of structure foundation at districts 2 and 9 in Ho Chi Minh city were presented. The results of stratification of geology at two areas obtained from above two approaches were similar. The obtained results revealed that the geology between district 2 and 9 were quite different. For the area at the district 2, from the surface to the depth of 20 m, the resistivity and the shear wave velocity increased 10–50 m and 50–300 m/s, respectively. Moreover, the thick silty layer with the thickness of 1718 m and the small values of resistivity and VS were also detected in this site. For the area at the district 9, the geological foundation was stiffer than the one of the district 2. Concretely, from the surface to the depth of more than 30 m, the resistivity and the shear wave velocity increased from 10300 m and 200450 m/s, respectively. The geological foundation was found to be most of clays. In addition, the silty clay layer at several sites along the survey line was observed, while the stiff sandy clay layer was recognized at the depth of 27 m.
#phương pháp phân tích sóng mặt đa kênh #phương pháp ảnh điện 2D #vận tốc truyền sóng ngang #điện trở suất
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ ĐĨA ĐỆM CỘT SỐNG THẮT LƯNG ĐỘ I, II, III BẰNG SÓNG NGẮN, XOA BÓP BẤM HUYỆT, ĐIỆN CHÂM VÀ KÉO GIÃN CỘT SỐNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 512 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng độ I, II, III bằng Sóng ngắn, xoa bóp bấm huyệt, điện châm và kéo giãn cột sống. Đối tượng, phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng đối chứng trên 70 bệnh nhân thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng độ I, II, III được xác đinh trên phim MRI (mỗi nhóm 35 bệnh nhân) được điều trị tại Trung tâm nghiên cứu và điều trị kỹ thuật cao/ Trung tâm Nhiệt đới Việt- Nga từ tháng 4/2021-12/2021. Kết quả: Nhóm nghiên cứu (nhóm sử dụng kết hợp bốn phương pháp) có thời gian điều trị trung bình là 17,6 (2,97) ngày, nhóm chứng (nhóm sử dụng điện châm, xoa bóp bấm huyệt) có thời gian điều trị trung bình 20,9 (3,52) ngày. Nhóm nghiên cứu có thời gian điều trị ngắn hơn so với nhóm chứng trung bình 3,29 ngày, 95%CI từ 1,74 đến 4,74 ngày. Sau can thiệp các chỉ số VAS, DMC, ODI nhóm nghiên cứu cải thiện tốt hơn so với nhóm chứng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Kết luận: Kết hợp bốn phương pháp giúp giảm ngắn thời gian điều trị, cải thiện triệu chứng đau, mức độ co cơ, mức độ tàn tật tốt hơn so với nhóm sử dụng điện châm, xoa bóp bấm huyệt đơn thuần.
#Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng #Điện châm #xoa bóp bấm huyệt #sóng ngắn điều trị #kéo giãn cột sống #Trung tâm nhiệt đới Việt-Nga
Kết quả xa khi sử dụng cấu hình cố định ngắn kết hợp với ghép xương liên thân đốt qua lỗ ghép trong phẫu thuật điều trị chấn thương cột sống Denis IIB ở vùng ngực thắt lưng
TẠP CHÍ Y DƯỢC LÂM SÀNG 108 - - Trang 109-115 - 2020
Mục tiêu: Đánh giá kết quả xa của phương pháp phẫu thuật sử dụng cấu hình cố định ngắn và ghép xương liên thân đốt qua lỗ ghép. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu được tiến hành trên các bệnh nhân chấn thương cột sống vùng ngực thắt lưng, Denis IIB điều trị bằng phẫu thuật cố định cột sống cấu hình ngắn kết hợp ghép xương liên thân đốt qua lỗ ghép tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 1/2013 đến tháng 1/2017. Bệnh nhân được theo dõi từ 1 năm trở lên. Đặc điểm chung của bệnh nhân, tình trạng thần kinh, mức độ lún bờ trước thân đốt sống, góc gù thân đốt và góc gù vùng cột sống được đánh giá trước, sau phẫu thuật và tại thời điểm kết thúc nghiên cứu. Các biến chứng liên quan được ghi lại. Kết quả: Có 36/40 bệnh nhân đáp ứng đủ tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ với thời gian theo dõi từ 17 đến 73 tháng (trung bình là 53,3 tháng). Thời gian phẫu thuật trung bình là 117,6 phút (từ 90 - 165 phút). Hình ảnh X-quang sau phẫu thuật cho thấy sự nắn chỉnh gù cột sống đạt kết quả tốt và được duy trì khá tốt tới thời điểm theo dõi cuối cùng. Có 9/36 bệnh nhân có tổn thương thần kinh không hoàn toàn trước phẫu thuật đã cải thiện từ 1 tới 2 bậc theo phân loại của ASIA. Phẫu thuật không làm tổn thương thần kinh ở 27/36 bệnh nhân. Kết luận: Cấu hình cố định ngắn kết hợp với ghép xương liên thân đốt qua lỗ ghép là một phương pháp phẫu thuật cho kết quả xa tốt điều trị bệnh nhân chấn thương cột sống vùng ngực thắt lưng, Denis IIB. Tỉ lệ liền xương tốt ở 91,7% và tỉ lệ thất bại dụng cụ 16,7%.
#Vỡ nhiều mảnh cột sống #cố định ngắn #ghép xương liên thân đốt
TÍNH GIÁ TRỊ VÀ ĐỘ TIN CẬY CỦA PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT BỘ CÂU HỎI NGẮN VQ11 Ở NGƯỜI BỆNH MẮC BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Cải thiện chất lượng cuộc sống là một mục tiêu quan trọng trong quản lý bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Có nhiều công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân COPD nhưng bộ câu hỏi VQ11 được đánh giá là có giá trị và tin cậy trong thực hành lâm sàng. Mục tiêu: Xác định tính giá trị và độ tin cậy của bộ câu hỏi VQ11 phiên bản tiếng Việt trên người bệnh COPD ở Tp.HCM. Đối tượng và phương pháp: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả với 41 người bệnh BPTNMT tham gia nghiên cứu lần 1 và 35 người tham gia 2 lần cách nhau 10-14 ngày tại Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh. Kết quả:  Bộ câu hỏi có giá trị hiệu lực nội dung cao (Content Validity Index = 95,7%), tính giá trị cao với hệ số Cronbach’s Alpha của toàn bộ câu hỏi là 0.916 (95% CI) trong đó tất cả các câu đều có  hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0.9. Độ tin cậy của bộ câu hỏi qua xác định tính ổn định test-retest ICC (Internal Correlation coefficient) là 0.78 trong đó tính ổn định về lĩnh vực chức năng và mối quan hệ xã hội tốt hơn lĩnh vực tâm lý. Kết luận: Bộ câu hỏi VQ11 phiên bản tiếng Việt là một công cụ có giá trị và đáng tin cậy để đo lường chất lượng cuộc sống ở người bệnh BPTNMT tại Việt Nam.
#COPD #chất lượng cuộc sống #tính giá trị #độ tin cậy #VQ11
ĐÁNH GIÁ PHONG BẾ CẢM GIÁC SAU GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ DỰNG SỐNG NGANG MỨC T7
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá vùng phong bế cảm giác sau gây tê mặt phẳng cơ dựng sống ngang mức mỏm ngang T7 liều duy nhất hai bên. Đối tượng và phương pháp: 30 bệnh nhân phẫu thuật sỏi đường mật tại Bệnh viện Việt Đức từ tháng 1/2022 đến 9/2022. Tiến hành ESPB ngang mức mỏm ngang T7 liều duy nhất hai bên trước phẫu thuật và đánh giá lại phong bế cảm giác vùng ngực bụng trước bên và chi dưới sau gây tê 30 phút. Kết quả: 30 bệnh nhân tham gia nghiên cứu với thời gian thực hiện gây tê trung bình là 11,50±2,36 phút, khoảng cách từ da đến mặt phẳng cơ dựng sống được đo dưới hình ảnh siêu âm trung bình là 2,17±0,92 cm. Có 2 bệnh nhân phong bế thất bại. Số đốt da phong bế trung bình là 6,43 (2-10 đốt), với phần lớn bệnh nhân có giảm cảm giác đốt da T6 đến T9 và trên 50% bệnh nhân gây tê đạt phong bế từ đốt da T4 đến T10. Không có bệnh nhân nào gặp biến chứng trong nghiên cứu. Kết luận: Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống ở mức ngang mỏm ngang T7 cho hiệu quả phong bế cảm giác tốt, tuy nhiên mức phong bế cảm giác khác biệt nhiều giữa các bệnh nhân.
#phong bế cảm giác gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #đau sau phẫu thuật sỏi mật
Hiệu quả khâu vòng cổ tử cung trên các thai phụ song thai có cổ tử cung ngắn
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 1 - Trang 47 - 50 - 2017
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả dự phòng sinh non của khâu vòng cổ tử cung (CTC) trong các thai kỳ song thai có CTC ngắn. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu hồi cứu, báo cáo hàng loạt ca. Dân số chọn mẫu: thai kì song thai được chẩn đoán cổ tử cung ngắn < 25 mm tuổi thai từ 16 đến 24 tuần được khâu CTC tại bệnh viện Mỹ Đức từ tháng 01/2014 – tháng 7/2016. Kết quả: Tỉ lệ sinh non trước 34 tuần của song thai có kênh cổ tử cung ngắn khâu vòng cổ tử cung là 30,6% (22 sản phụ). Tỉ lệ tử vong chu sinh được ghi nhận là 11,8%. Không trường hợp nào biến chứng nặng sau thủ thuật được ghi nhận. Kết luận: Khâu vòng CTC có thể được xem xét áp dụng trong dự phòng sinh non ở các thai phụ song thai có cổ tử cung ngắn.
#Sinh non #khâu cổ tử cung #song thai #cổ tử cung ngắn.
Tổng số: 91   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10